Tên : Lễ Trùng cửu, Trùng dương
Thời gian : Mùng 9 Tháng 9
Đối tượng :
– Người già, đặc biệt la cha mẹ già hoặc đã khuất
– Cây, quả chín hoặc đã quá già
– Phụ nữ xuất gia, xuất giá
Sự kiện
– Xuất gia – Xuất giá
– Về già – Quá già
– Cái chết, sự kết thúc
– Huyền bí, huyền thiên
CỬU – CHÍN – KỶ
NHÂN VẬT
– Cô Chín
– Mẫu Cửu Thiên, Mẫu Cửu Trùng Thiên
– Cửu Thiên Huyền Nữ
THẦN TÍCH
– Hậu Nghệ bắn chín mặt trời
CÁC NGÀY ĐẶC BIÊT CỦA THÁNG 9
CÁC NGÀY ĐẶC BIỆT MANG SỐ 9
THÁNG 9 : MƯA – NẮNG – GIÓ
THÁNG 9 – NẮNG
THÁNG CHÍN NẮNG GẮT NẮNG GAY
Tháng giêng là nắng hơi hơi
Tháng hai là nắng giữa trời nắng ra
Thứ nhất là nắng tháng ba
Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non
Tháng năm nắng đẹp nắng giòn
Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa
Tháng bảy là nắng vừa vừa
Tháng tám là nắng tờ ơ thế này
Tháng chín nắng gắt nắng gay
Tháng mười có nắng, nhưng ngày nắng không
Tháng một là nắng mùa đông
Tháng chạp có nắng nhưng không có gì
THÁNG 9 – MƯA
THÁNG 9 MƯA RƯƠI
Tháng chín mưa rươi
Tháng mười mưa cữ
—o—
THÁNG CHÍN LÀ THÁNG MƯA RƯƠI
Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẵn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu
—o—
THÁNG CHÍN MƯA GIÔNG
Tháng chín mưa giông thuyền mong ghé bến
Từ nơi bãi biển qua đến buổi chợ chiều
Nuôi con chồng vợ hẩm hiu
Nhà tranh một mái tiêu điều nắng mưa
THÁNG 9 – GIÓ
THÁNG CHÍN PHONG VÂN GẶP HỘI
Lác đác lộc cơi
Đôi dân nước nghĩa hồ vơi lại đầy
Tháng chín năm nay phong vân gặp hội
Lòng em bối rối, trong dạ khát khao
Em mong chị ra để mà than thở
Đôi dân cách trở, đường đất xa xôi
Tơ hồng xe rồi, sao chị chẳng liệu?
Ngoài em thì tiếu, trong chị thì đài
Để em chờ đợi đến hôm mai
—0—
THÁNG CHÍN LÀ THÁNG GIÓ NGOÀI
Tháng giêng là gió hây hây
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đền
Tháng ba gió đưa nước lên
Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây
Tháng năm là tiết gió tây
Tháng sáu gió mát cấy cày tính sao
Tháng bảy gió lọt song đào
Tháng tám là tháng tạt vào hôm mai
Tháng chín là tháng gió ngoài
Tháng mười là tháng heo may rải đồng
Tháng một gió về mùa đông
Tháng chạp gió lạnh gió lùng, chàng ơi
Mười hai tháng gió tôi đã họa rồi
Mưa đâu, chàng họa một bài cùng nghe!
—o—
THÁNG CHÍN MƯA BỤI GIÓ MAY
Trời mưa cho ướt lá khoai
Công anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước cực lòng anh thay
Tháng chín mưa bụi, gió may
Cất lấy gàu nước, hai tay rụng rời
THÁNG 9 – CON : RƯƠI
Hai mươi tháng chín mưa rấp trộ rươi
Hai mươi tháng mười mưa rấp trộ cá
NGÀY 20-9 & 20-10 : là ngày có rươi và có cá trên cánh đồng
—o—
Tháng chín đôi mươi
Tháng mười mùng năm
NGÀY 20-9 & 5-10 : là hai người nước lên, rươi xuất hiện
—o—
Tháng chín ăn rươi
Tháng mười ăn ruốc
Rươi và ruốc hay con tôm nhỏ là sản vật của đồng lúa ngập nước tháng 9 và tháng 10
—o—
Tháng chín mưa rươi
Tháng mười mưa cữ
Rươi xuất hiện cùng với mùa mưa tháng 9, mưa tháng 9 gọi là mưa rươi
—o—
Tháng chín động rươi
Tháng mười động ra
Tháng ba động rạm
Rươi, ra và rạm đều là các sản vật của đồng ruộng khi có đủ nước
THÁNG 9 – CÂY
LÚA
Muốn ăn cơm chăm
Ném mạ rằm tháng chín
Lúa cấy tháng chạp
Đạp gốc mà gặt
—o—
Một năm chia mười hai kì
Em ngồi em tính khó gì chẳng ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho em phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bồ thóc đống còn phiền nỗi chi?
—o—
Tháng giêng thì lúa xanh già
Tháng hai lúa trổ, tháng ba lúa vàng
Tháng tư cuốc đất trồng lang
Tháng năm cày cuốc tiếng nàng hò lơ
Tháng sáu làm cỏ dọn bờ
Tháng bảy trổ cờ, tháng tám chín thơm
Gặt về đạp lúa phơi rơm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm hàng ngày
Lúa khô giê sạch cất ngay
Chỗ cao ta để phòng ngày nước dâng
Mùa đông mưa bão nhiều lần
Nàng xay, chàng giã cùng ngân tiếng hò
Tháng mười cày cấy mưa to
Trông trời, trông đất cầu cho được mùa
QUẢ HỒNG
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm, xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc, bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
QUÍT
Tháng chín quít đỏ trôn
BẦU
Muốn ăn bầu trồng đầu tháng chín
RAU MUỐNG : rau già
Rau muống tháng chín, nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn
MĂNG : măng già
Măng tháng chín thì nhịn cho chồng
Cá rô tháng năm thì bằm cho chó
—o—
Chuối mùa đông cho không nỏ lấy—o—Măng tháng chín thì nhịn cho chồng
Chuối mùa đông quăng cho lợn
SAO CỦA SỐ 9
Có hai ngôi sao liên quan đến số 9, là sao Thần hay sao Thần nông của tháng 9 âm lịch, và sao vua, hay sao rua, sao Mạ (sao Kim Ngưu) có 9 cái. Hai chòm sao này đều liên quan đến nông nghiệp.
– Thiên Hạt Tên dân gian là Thần Nông, còn gọi là chòm Bọ Cạp hoặc gọi tắt là sao Thần, một chòm sao lớn nằm ở bầu trời phía nam gần trung tâm của dải Ngân Hà. Nhà nông nước ta xưa kia xác định vụ lúa bằng cách quan sát biến đổi của chòm sao này.
– Tua rua Tên gọi dân dã trong tiếng Việt của cụm sao phân tán M45 trong chòm Kim Ngưu (Taurus), ở Việt Nam thường thấy được vào lúc sáng sớm đầu tháng 6 dương lịch. Tua Rua còn được nông dân đồng bằng Bắc Bộ gọi là Sao Mạ vì xuất hiện trên bầu trời vào thời vụ gieo mạ lúa mùa chính vụ. Trong bầu trời đêm thì mắt thường có thể nhìn thấy chín ngôi sao sáng nhất của cụm sao này, vì thế trong dân gian mới có câu “Sao Tua (Vua) chín cái nằm kề.”
SAO THẦN (SAO THẦN NÔNG) – THÁNG 9
Trên trời có ông sao Thần
Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm.
Sang xuân Thần cúi lom khom
Là mùa trồng đậu, dân làng biết chăng?
Bước sang tháng chín rõ trăng
Lưng thần hơi đứng là đang gặt mùa
—o—
SAO VUA – 9 CÁI
Sao vua chín cái nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về với cha
Sao vua chín cái nằm ngang
Thương em từ thuở mẹ mang trong lòng
Sao vua chín cái nằm chồng
Thương em từ thuở mẹ bồng trên tay
Sao vua chín cái nằm ngay
Thương em từ thuở biết đi biết bò.
—o—
Sao Rua chín cái, sao Bánh Lái nằm ngang
Thương em từ thuở má mang trong lòng
Sao Rua chín cái nằm chồng
Thương em từ thuở má bồng trên tay
BÀI CA SAO
Sao Tua chín cái nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về với cha
Sao Vua sáu cái nằm xa
Thương em từ thuở người ra người vào
Sao Mơ sáu cái nằm chầu
Sao Khuê mấy cái nằm đâu
Sao Khuê chín cái nằm dài
Thương em từ thuở tình ngoài nghĩa trong
Sao Măng năm cái nằm ngang
Thương em từ thuở mẹ mang đầy lòng
Sao Vươn dăm cái nằm tròn
Sao Tư bốn cái nằm vuông
Sao Đôi hai cái nằm chồng
Thương em từ thuở mẹ bồng mát tay
Sao Hoa ba cái nằm xoay
Thương em từ thuở được vay nụ cười
Sao Băng bay vút vào đời
Sao Sa rơi xuống lòng vui
Sao Băng ngã xuống gầm trời
Thương em từ thuở mẹ ngồi nghĩ xa
Sao Sa rơi xuống vườn hoa
Thương em từ thuở người ta lại gần
Sao Hôm lấp lánh đầu làng
Sao Mai láp lánh đầu thôn
Sao Hôm le lói đầu hè
Thương em từ thuở em về với ai
Sao Mai le lói ngọn cây
Thương em từ thuở về xây tình người
Sao Vân xa tít đầu trời
Sao Quanh cao ngất ngoài khơi
Sao Vân muôn cái mịt mùng
Thương em từ thuở nghìn trùng cách chia
Sao Quanh theo gót người đi
Thương em chỉ có trời khuya nhìn về
Sao ơi sao hỡi buồn gì
Sao ơi sao hỡi buồn chi
CHÍN – TRẠNG THÁI THÂN THỂ, VẬT CHẤT
LÚA CHÍN
Tháng sáu gọi cấy rào rào
Tháng mười lúa chín mõ rao cấm đồng
—o—
Trời cao đất rộng thênh thang,
Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng,
Cá tươi gạo trắng nước trong,
Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê
ỚT CHÍN
Anh đi Tam Tượng hái chè
Bớt cây ớt chín sau hè chim ăn
Sau lưng vườn ổi mẹ trồng khi xưa
Mẹ em tần tảo sớm trưa
Mẹ mong con lớn, ổi vừa chín cây
– Nhà anh ở phía hướng Tây
Cha anh làm ruộng từ ngày đất hoang
Thương em trong cảnh cơ hàn
Ngày qua tháng lại tình thêm nặng tình
Ngỡ rằng trái chín trên cành thì ngon
Ruột chua loét, vỏ bồ hòn
Cắn rồi liền nhả, lăn tròn trái chanh
Ê răng khỉ mới dặn mình
Phải dò trong ruột, chớ tin bề ngoàiBÒ CHÍNTrục trục như con bò thuiChín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầuBA BA CHÍNNồi ba nấu cháo ba ba,
Tam tam như cửu, hỏi anh đà chín chưa?
– Cầu hai nước chảy phân hai,
Nhị nhị như tứ, xin em chớ theo ai bốn lầnCƠM CANH CHÍN
Ù à ù ập
Nước chảy tràn ngập
Cả vũng chân trâu
Chị đỏ đi đâu?
Đi cày đi cấy
Bắt được con bấy
Đem về nấu canh
Băm tỏi băm hành
Xương sông lá lốt
Băm cho đầy thớt
Nấu cho đầy nồi
Đặt lên vừa sôi
Bắc xuống vừa chín
Chàng về chàng hỏi
Được mấy bát canh?
Tôi chiềng với anh
Được ba bốn bát
Đừng có xáo xác
Mà xóm giềng nghe
Để ra ăn de
Được ba bốn bữa.
Nấu cơm chẳng chín, nấu chè chẳng sôi
Têm trầu thì têm lạt vôi,
Bửa cau long hạt, cộc ơi là què!—o—Con cộc mà lấy thằng què
Nấu cơm chẳng chín, nấu chè chẳng sôi
Đi chợ thì quên mua vôi,
Mua cau thiếu hạt, mua nồi thiếu vung—o—
CHÍN CHẮN – TRẠNG THÁI VẬN HÀNH & TINH THẦN
Bao giờ Mang hiện đến ngày
Cày bừa cho chín, mạ này đem gieo
Thu gạo thu nếp nó bò xuống hang
Tuổi Sửu con trâu kềnh càng
Cày chưa đúng buổi nó mang cày về
Tuổi Dần con cọp chỉn ghê
Bắt người ăn thịt tha về non cao
Tuổi Mẹo là con mèo ngao
Hay quấu hay quào ăn vụng thành tinh
Tuổi Thìn, rồng ở thiên đình
Đằng vân giá vũ ẩn mình trên mây
Tuổi Tỵ nằm ở bộng cây
Nằm khoanh trong bộng chẳng hay điều gì
Tuổi Ngọ ngựa ô đen sì
Ỷ mình sức mạnh sá gì đường xa
Tuổi Mùi là con dê chà
Có sừng mọc ngược râu ra um tùm
Tuổi Thân con khỉ ở lùm
Chuyền qua chuyền lại té ùm xuống sông
Tuổi Dậu con gà vàng lông
Có mỏ có mồng nó gáy ó o
Tuổi Tuất là con chó cò
Nằm khoanh trong lò lỗ mũi lọ lem
Tuổi Hợi con heo ăn hèm
Làm chuồng nhốt lại không thèm nhảy ra
CHÍN – CON SỐ CẢNH GIỚI
Trèo lên tụt xuống, cứ trương gan mà trèo?
– Chín tầng mây con cóc nỏ thèm leo
Cóc ở hang sâu, cóc kêu một tiếng, mưa gieo bốn bề!
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
Chớ đánh rắn trong hang,
Chớ đánh đại bàng trên chín tầng mây
Lầu cao chín tầng, con thằn lằn còn chắc lưỡi
Bụi bờ lắt lẻo, con coi cói cũng ướt lông
Ai ơi xin thấu cho cùng
Nơi giàu sang em không chuộng, nơi khó mặn nồng em cứ theo
Người xưa không xây nhà cao chín tầng cho nên lầu cao chín tầng là lối nói ví von rằng lầu rất cao, cao chín tầng mây.
—o—
Mỗi tháng có nửa tuần trăng
May cho đấy ở cho bằng lòng đây
Chàng về giục gió khuyên mây
Chín lần mây đệm chưa tày đời ta
Chín lần mây đệm cũng là chín tầng mây.
—o—
CHÍN CÕI – CỬU TRÙNG – CHÍN CÕI CỬU TRÙNG : là chín tầng, chín cõi trời theo quan niệm Phật giáo, gồm có:
– Vô vân,
– Phước sinh,
– Quảng quả,
– Vô tưởng,
– Vô phiền,
– Vô nhiệt,
– Thiện kiến,
– Thiện hiện,
– Sắc cứu cánh.
—0—
Muốn xuống đất, đất nỏ có đàng
Phải chi em hóa đặng con chim vàng
Tìm lên chín cõi, xem dạ chàng thử sao
CHÍN SUỐI – CỬU TUYỀN
Về nơi chín suối
Cặp con mắt tui còn nuối cái nghĩa mình
Qua cầu anh đợi bây giờ em quên
Kiếp này đã lỡ làng duyên
Kiếp sau xin đợi cửu tuyền gặp nhau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau
Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình
Nằm nghe con nhạn kêu ngoài Bắc
Em nhớ tới anh ruột thắt chín tầng.
CHÍN KHÚC
Buổi mai ngủ dậy
Ra tắm bể Đông
Đạp cây xương rồng
Kéo lên chín khúc
Gặp mệ bán cá úc
Đổ máu đầu cầu
Gặp mệ bán dầu
Dầu trơn lầy lẫy
Gặp mệ bán giấy
Giấy mỏng tanh tanh
Gặp mệ bán chanh
Chanh chua như dấm
Gặp mệ bán nấm
Nấm lại một tai
Gặp mệ bán khoai
Khoai lọi một cổ …
—o—
Ai về Phú Lộc gửi lời
Thư này một bức nhắn người tri âm
Mối tơ chín khúc ruột tằm
Khi tháng tháng đợi khi năm năm chờ
Vì tình ai lẽ làm lơ
Cắm sào quyết chí đợi chờ bến xuân
Ước sao chỉ Tấn tơ Tần
“Sắc cầm hòa hợp” lựa vần “quan thư”
Đôi bên ý hiệp lòng ưa
Đắp đền công thiếp lại vừa lòng anh
Thiếp thời tần tảo cửi canh
Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thì
Một mai chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi có đề tên anh
—o—
CHÍN TOÀ
Ba gian nhà rạ lòa xòa
Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim
—o—
Chẳng tham nhà ngói bức bàn
Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà
Ba gian nhà rạ lòa xòa
Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim
CHÍN & TRĂNG
Bạn về răng được mà về
Non nước lời thề bạn bỏ cho ai?
– Lời nguyền bỏ lại đến mai
Chín con trăng giữ trọn, chẳng sai con nào
—o—
Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng
—o—
Ví dầu đèn tỏ hơn trăng
Trăng soi chín huyện, đèn chong một nhà
CHÍN – SỐ THÁCH CƯỚI
CHÍN – SỐ ĐẾM
Tôi chào cô Hai như sao Mai rạng mọc
Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh
Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt
Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan
Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng
Tôi chào cô Tám như hai làng liễn cẩn
Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành
Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
Hỏi cho biết cửa biết nhà
Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
—o—
Một thương em nhỏ móng tay
Hai thương em bậu khéo may yếm đào
Ba thương cám cảnh cù lao
Bốn thương em bậu miệng chào có duyên
Năm thương má lúm đồng tiền
Sáu thương em bậu như tiên chăng là
Bảy thương em có nguyệt hoa
Tám thương em bậu làm qua phải lòng
Chín thương nước mắt ròng ròng
Mười thương em bậu phải lòng qua chăng?
Mười một em hãy còn son
Mười hai vú dậy đã tròn như vung
Mười ba em đã có chồng
Bước qua mười bốn trong lòng thọ thai …
—o—
Thuốc rê chồng hút vợ say
Thằng nhỏ mồi thuốc lăn quay chín vòng
—o—
Những ngày tôi ở cùng cha
Cái nón chín rưỡi, thao ba mươi đồng
Đến khi tôi về cùng chồng
Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo
—o—
Trời hỡi trời! Sao dời vật đổi
Nên chi cỏ héo hoa sầu!
Kể từ ngày nương tựa lều tranh
Công ơn mẹ kể không xiết kể!
Tuần cay đắng chín trăng có lẻ
Chữ sinh thành nghĩa mẹ tày non
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con.
Mẹ nuôi con vuông tròn khôn lớn
Cho con xin đền miếng ngọt mùi ngon
—o—
Làng Chè vui lắm ai ơi
Một ngày hai bữa chỉ ngồi ăn không
Việc làm đã có ông chồng
Đúc một nồi đồng nuôi chín miệng ăn.
—o—
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười
—o—
CHÍN NGHÌN ANH EM
Lúc khó thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng, chín nghìn anh em
—o—
Khó hèn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên
ĂN CHÍN LẠNG ỚT NGỌT NGAY NHƯ ĐƯỜNG
Nhác trông thấy bóng anh đây
Ăn chín lạng ớt ngọt ngay như đường
—o—
Thương em vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay
Nhác trông thấy bóng em đây
Ăn chín lạng hạt ớt ngọt ngay như đường
—o—
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
Kìa giấy Yên Thái như kia
Giếng sâu chín trượng nước thì trong xanh
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ
Cổng chợ có miếu thờ vua
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên
Chùa Thiên Niên có cây vọng cách
Chùa Bà Sách có cây đa lông
Cổng làng Đông có cây khế ngọt
Con gái Kẻ Cót thì đi buôn xề
Con trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê.
CỬU LONG – SÔNG CHÍN CỬA
Ở đâu sáu tỉnh anh ơi
Sông nào chín cửa, nước chảy xuôi một nguồn
Sông nào có nước trong luôn
Núi nào có tiếng cả muôn dặm ngoài
Con gì có cánh không bay
Con gì không cẳng, chạy ngay trăm rừng
Con gì giống chó có sừng
Anh mà đáp được, em cùng theo anh
– Nam Kỳ sáu tỉnh em ơi
Sông Cửu Long chín cửa, nước chảy xuôi một nguồn
Sông Đồng Nai nước sạch trong luôn
Núi Thất Sơn danh tiếng cả muôn dặm ngoài
Con gà có cánh không bay
Con rắn không cẳng, chạy ngay trăm rừng
Con dê giống chó có sừng
Anh đà đáp được, em cùng theo anh
CHÍN – THỜI GIAN MANG THAI
Chín tháng mười ngày
—o—
Chàng ơi: ơn thầy ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Ai đền ơn cho thiếp
Mà nhủ thiếp trao ân tình
—o—
Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
—o—
Cha mẹ sinh dưỡng ra con
Cũng như trời đất nước non không cùng
Vẫn là một khí huyết chung
Chia riêng mày mặt trong lòng sinh ra
Bào thai chín tháng mang ta
Kiêng khem bệnh tật ai hòa chịu chung
—o—
Năm xưa anh ở trên trời
Đứt dây rớt xuống làm người trần gian
Năm xưa anh vẫn đi hàn
Là nghề truyền kiếp tông đàng nhà ta
Anh hàn từ nồi bảy, nồi ba
Gặp cô mười tám đem ra anh cũng hàn
Cô này to lỗ, tốn than
Đồng đâu mà đổ cho giàn lỗ ni
Hết đồng anh lại pha chì
Anh hàn chín tháng, cô thì thụ thai
Sinh được thằng bé con trai
Về sau giống bố, gặp ai cũng hàn.
—o—
Con chị mang chín tháng không rầu
Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm
CHÍN CHỮ CÙ LAO – TỨC CỬU
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào
Dạy rằng chín chữ cù lao
Bể sâu không ví, trời cao không bì
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau
Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình
—o—
Thương thay chín chữ cù lao
Tam niên nhũ bộ, biết bao nhiêu tình
Đây cũng là câu 585-586 trong truyện Lục Vân Tiên
—o—
Ru con con ngủ à ơi
Trông cho con lớn nên người khôn ngoan
Làm trai gánh vác giang san
Mẹ cha trông xuống, thế gian trông vào
Ru con con ngủ đi nào
Cù lao dưỡng dục biết bao cho cùng
Làm trai quyết chí anh hùng
Ra tay đánh dẹp, vẫy vùng nước non.
—o—
Ớ này em ơi! Em nghe cho kỹ
Xưa nay gái chẳng cưới chồng, trai không ở goá
Đoái thấy nàng xinh đà quá xinh
Buông lời vừa vỗ vế non
Nếu như nàng lo việc cháu con
Thời